ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
Scroll top

bàn tròn thưởng ngoạn

Liên kết

Tỉ giá

Tỷ giá ngoại tệ Vietcombank ngày :


Thành phố Loại vàng Giá bán Giá mua
Hồ Chí Minh Vàng SJC 1L - 10L 36.430 36.250
Vàng SJC 1L - 10L 36.430 36.250
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 36.190 35.790
Vàng nhẫn SJC 99,99 0,5 chỉ 36.290 35.790
Vàng nữ trang 99,99% 36.140 35.440
Vàng nữ trang 99% 35.782 35.082
Vàng nữ trang 75% 27.258 25.858
Vàng nữ trang 58,3% 21.222 19.822
Vàng nữ trang 41,7% 15.222 13.822
Hà Nội Vàng SJC 36.450 36.250
Đà Nẵng Vàng SJC 36.450 36.250
Nha Trang Vàng SJC 36.450 36.240
Cà Mau Vàng SJC 36.450 36.250
Buôn Ma Thuột Vàng SJC 36.450 36.240
Bình Phước Vàng SJC 36.460 36.220
Huế Vàng SJC 36.450 36.250
Biên Hòa Vàng SJC 36.430 36.250
Miền Tây Vàng SJC 36.430 36.250
Quãng Ngãi Vàng SJC 36.430 36.250
Đà Lạt Vàng SJC 36.480 36.270
Long Xuyên Vàng SJC 36.430 36.250

ĐỒ SỨ KÝ KIỂU THỜI CHÚA TRỊNH (PHẦN 3)

11-07-2016

Bài: Philippe Truong; Ảnh: Philippe Truong, Trần Đức Anh Sơn và Jochen May

Kỳ 3: ĐỒ SỨ NỘI PHỦ THỊ HỮU VÀ ĐỒ SỨ NỘI PHỦ THỊ ĐOÀI

TRONG HẬU CUNG PHỦ CHÚA TRỊNH

1. Hữu cung và đồ sứ Nội phủ thị hữu

Thời chúa Trịnh (1545 – 1788), Hậu cung là nơi ở của các vương phi trong phủ chúa. Dưới đời Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm (1739 – 1782), Hậu cung gồm sáu cung điện: Hữu cung dành cho Chính phi Hoàng Thị Ngọc Phương; Đoài cung danh cho Tuyên phi Đặng Thị Huệ, bốn cung còn lại là nơi ở của bà phi tần hạng dưới.

Hữu cung là cung điện dành riêng cho các chính phi, vợ cả của các chúa Trịnh. Đời chúa Trịnh Sâm, đây là nơi ở của chính phi Hoàng Thị Ngọc Phương, mẹ của hai công chúa Ngọc Anh và Ngọc Loan.

Đồ sứ dùng trong Hữu cung là đồ sứ ký kiểu tại Trung Hoa, mang hiệu đề Nội phủ thị hữu, thường được trang trí hình rồng và phượng. Trong văn hóa Trung Hoa, hình ảnh chim phượng tượng trưng cho hoàng hậu và cho tầng lớp phụ nữ quyền quý. Các chúa Trịnh do chịu ảnh hưởng của tư tưởng này nên đã cho vẽ hình chim phượng lên đồ sứ ký kiểu dùng trong Hữu cung, như là biểu tượng của các chính phi ở trong phủ chúa.

1.1.Đồ sứ Nội phủ thị hữu đời chúa Trịnh Giang

Một trong những đồ án trang trí được ưa chuộng trên đồ sứ Nội phủ thị hữu đời chúa Trịnh Giang (1729 – 1740) là đồ án long phụng triều nhật. Một chiếc đĩa hiệu đề Nội phủ thị hữuký kiểu vào đời chúa Trịnh Giang, thuộc sưu tập Phạm Hy Tùng ở TPHCM, vẽ long phụng triều nhật theo kiểu guocheng1: đuôi rồng được vẽ ở mặt ngoài thành đĩa cùng với các hồi văn thủy ba, nhưng thân rồng vươn vào trong lòng đĩa và kết thúc với hình ảnh đầu rồng vươn cao, nhìn vào một con chim phượng được vẽ theo hướng từ trên bay xuống. Cả hai linh vật này đang cùng nhìn một quả cầu lửa, hoặc là hạt châu như cách gọi của một số nhà sưu tầm cổ ngoạn (nên đồ án này cũng được gọi là long phụng tranh châu). Đây là món đồ được ký kiểu khá sớm, lại là đồ dùng trong cung của vương phi, nên nét vẽ không được tỉ mỉ và màu sắc không hoàn hảo như những món đồ sứ Nội phủ thị trung dành cho các chúa. Quả cầu lửa được vẽ theo kiểu Khang Hi (1662 – 1722), gồm một vòng tròn, có một đao lửa vươn lên ở chính giữa quả cầu và hai đao lửa ở vươn ra hai bên từ phần đáy quả cầu. Con rồng được thể hiện bên phải đồ án, tuy có năm móng nhưng nét vẽ đơn giản, ít chú trọng đến những chi tiết như sừng và bờm ở trên đầu và bỏ sót hai chân trước. Song chính sự đơn giản hóa các họa tiết này lại tạo điều kiện cho các họa sĩ Việt Nam khi thiết kế đồ án này để tạo ra một kiểu đuôi rồng xoáy tròn, với các chòm lông đuôi xòe rộng và uốn hình sóng lượn. Đây là kiểu đuôi rồng chỉ xuất hiện trên những món đồ sứ ký kiểu, khác hẳn với đuôi con rồng Tàu. Kiểu đuôi rồng này về sau đã trở thành mẫu mực cho của các họa tiết rồng có trên đồ gốm Bát Tràng và đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn. Sự cách điệu trong lối vẽ đuôi rồng này hoàn toàn không ảnh hưởng đến bố cục của đồ án, ngược lại, nó nhấn mạnh tính đối lập giữa hình ảnh hiền hòa và tĩnh lặng ở trong lòng đĩa với hình ảnh sống động ở mặt ngoài thành đĩa. Nếu ở mặt ngoài, thân rồng là những đường gấp khúc cực đoan, thể hiện dáng điệu sôi nổi, sinh động, thì khi vươn vào lòng đĩa, hình rồng bớt đi vẻ kích động, trở nên hiền từ hơn khi đối diện với hình chim phượng dịu dàng và uyển chuyển.

Đồ án trang trí long phụng triều nhật này cũng xuất hiện trên một chiếc quán tẩy hiệu đềNội phủ thị hữu cũng ký kiểu vào đời chúa Trịnh Giang, thuộc sưu tập Thomas Ubrich ở Berlin (Đức). Bố cục trang trí và cách thức thể hiện hình rồng và chim phượng trên chiếc quán tẩy này giống như trên chiếc đĩa Nội phủ thị hữu đã được đề cập trên đây. Tuy nhiên, lối vẽ văn thủy ba, những dải mây và quả cầu lửa thì có đôi chút khác biệt, theo hướng đơn giản hơn, ít tỉ mỉ hơn.

Đĩa Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang. Sưu tập Phạm Hy Tùng.

Đĩa Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang. Sưu tập Phạm Hy Tùng.

Đĩa Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang (mặt đáy). Sưu tập Phạm Hy Tùng.

Đĩa Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang (mặt đáy). Sưu tập Phạm Hy Tùng.

Quán tẩy Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang. Sưu tập Thomas Ulbrich.

Đĩa Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang. Sưu tập Thomas Ulbrich.

Quán tẩy Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang (mặt đáy). Sưu tập Thomas Ulbrich.

Đĩa Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Giang (mặt đáy). Sưu tập Thomas Ulbrich.

Quán tẩy Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Sâm. Hiện vật thuộc sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM.

Quán tẩy Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Sâm. Hiện vật thuộc sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Loan de Fontbrune.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Loan de Fontbrune.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Loan de Fontbrune.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng triều nhật, đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Loan de Fontbrune.

1.2. Đồ sứ Nội phủ thị hữu đời chúa Trịnh Sâm

Đời chúa Trịnh Sâm (1767 – 1782), kiểu vẽ long phụng triều nhật trên các món đồ sứ Nội phủ thị hữu không còn mang nhiều “tính cách Việt” như dưới đời chúa Trịnh Giang mà chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi lối vẽ của Trung Hoa. Ngoại từ đuôi rồng vẫn được thể hiện theo kiểu cuộn xoáy với các chòm lông đuôi uốn lượn hình sóng nước, hình ảnh con rồng hoàn toàn phỏng theo kiểu rồng trên đồ sứ ngự dụng thời Minh (1368 – 1644) và thời Thanh (1644 – 1911), với kiểu sừng nhiều nhánh và năm móng rồng giương thành vòng tròn. Kiểu vẽguocheng vẫn được sử dụng trong kiểu thức trang trí này, nhất là đối với những món đồ quan trọng, mà chiếc quán tẩy hiệu đề Nội phủ thị hữu2, thuộc sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM, là một minh chứng. Những linh thú trong đồ án này được thể hiện rất sinh động: thân rồng khúc khuỷu thái quá, các móng rồng giương ra đầy vẻ dọa nạt, mặt rồng lởm chởm râu tóc thể hiện uy lực… khiến cho con rồng mang biểu tượng của sức mạnh tuyệt đối, trong khi chim phượng được thể hiện với vẻ hiền lành và có vẻ khiếp nhược trước con rồng. Ngoài ra, sự hiếm hoi của các cụm mây, vốn xuất hiện khá nhiều trong các đồ ánlong phụng triều nhật trên đồ sứ Nội phủ thị hữu đời chúa Trịnh Giang, càng nhấn mạnh kịch tính của đồ án trang trí này.

Trên một chiếc bát sâu lòng hiệu đề Nội phủ thị hữu3, cũng là đồ sứ ký kiểu đời chúa Trịnh Sâm, thuộc sưu tập Loan de Fontbrune ở Paris (Pháp), thì đồ án long phụng triều nhật lại được thể hiện theo một cách khác: cả rồng và phượng đều có cùng hướng bay, nhưng đầu của chim phượng đang quay lại, nhìn về phía con rồng đang bay sau nó và giữa hai linh vật này vẫn hiện diện một quả cầu lửa. Sự tương phản giữa hai linh vật còn được nhấn mạnh bởi sự khác biệt của các đám mây bao quanh chúng: những đám mây xung quanh chim phượng được vẽ thành từng dải dài, cuộn quanh chân chim, trong khi những đám mây xung quanh con rồng chỉ được phác họa, không có đường viền và không liên tục, nhằm ám chỉ đó chính là nơi rồng vạch mây xuất hiện.

Ngoài ra, trong những món đồ sứ Nội phủ thị hữu do các chúa Trịnh ký kiểu cho   các chính phi sử dụng trong Hữu cung còn có những chiếc bát vẽ đồ án long phụng khánh thọ, trong đó, hình ảnh quả cầu lửa, biểu trưng của mặt trời và sức mạnh đã được thay thế bởi những Thọ hình tròn, theo kiểu chữ triện để biểu trưng cho sự trường tồn. Điển hình là những chiếc bát sâu lòng thuộc sưu tập Jochen May ở Neustadt (Đức).

Trong con mắt của giới sưu tập đồ sứ ký kiểu thì những món đồ Nội phủ thị hữu vẽ rồng phượng đời chúa Trịnh Sâm là những món đẹp nhất trong dòng đồ sứ ký kiểu do các chúa Trịnh đặt làm cho Hữu cung. Đó là những món đồ đã đạt đến sự tinh tế của men màu và sự chuẩn xác, hoàn hảo của họa tiết trang trí, xứng đáng là những “vưu vật” của đồ sứ ký kiểu thời chúa Trịnh.

2. Đoài cung và đồ sứ Nội phủ thị đoài

2.1. Tuyên phi Đặng Thị Huệ và Đoài cung

Đặng Thị Huệ vốn là một thị nữ trong phủ chúa Trịnh. Nhờ xinh đẹp, duyên dáng nên được chúa Trịnh Sâm yêu chiều. Vì thế, Thị Huệ càng ngày càng lộng hành, có chuyện gì không vừa ý thì kêu khóc khiến chúa phải dùng nhiều cách dỗ dành để người đẹp vui lòng. Khi Thị Huệ sinh con trai (năm 1777), chúa Trịnh Sâm rất vui mừng và lấy tên của mình lúc nhỏ là Cán mà đặt cho con và sắc phong Đặng Thị Huệ làm Tuyên phi. Từ đó, quyền lực của Tuyên phi càng ngày càng gia tăng. Đặng Thị Huệ đã cùng với Huy Quận công Hoàng Đình Bảo lập mưu giành ngôi thế tử về cho con của mình là Trịnh Cán. Trước đó, Trịnh Sâm đã có Trịnh Tông là con trai của chúa với Thái phi Dương Ngọc Hoan. Tuy là con trai trưởng nhưng Trịnh Tông nhưng không được chúa thương yêu nên không được phong là Đông cung thế tử. Khi Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Tông ngầm đợi sau khi chúa mất sẽ bắt giam Tuyên phi và Trịnh Cán. Âm mưu bại lộ, Trịnh Tông bị chúa phế xuống làm con út (năm 1780), đổi tên thành Trịnh Khải và bị giam trong Nội phủ.

Năm 1781, Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi chúa Trịnh Sâm tái phát bệnh, Tuyên phi cùng Hoàng Đình Bảo thảo tờ cố mệnh, sắc phong cho nàng chức Chính cung và quyền tham dự chính sự để chúa phê chuẩn. Vì Trịnh Sâm ốm quá nặng nên Trịnh Kiểu (con thứ năm của chúa Trịnh Cương) đã ghi tên thế tử Trịnh Cán vào tờ cố mệnh. Ngày 30 tháng 9 năm Nhâm dần (1782), chúa Trịnh Sâm mất. Trịnh Cán với tước hiệu Diện Đô vương lên kế nghiệp cha song quyền lực thực sự lại nằm trong tay Tuyên Phi họ Đặng. Tuy nhiên, chỉ sau một tháng cầm quyền, Trịnh Khải đã lật ngược tình thế, phế truất Trịnh Cán để chiếm quyền. Trịnh Cán bị quản thúc tại phủ Lương quốc. Đặng Thị Huệ bị truất xuống hàng thứ nhân, sau uống thuốc độc chết.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng tiên đoán: “Đoài cung một sớm đổi thay. Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn” để nói về cảnh rối loạn trong Trịnh phủ sau khi chúa Trịnh Sâm mất. Chấn cung là tên gọi khác của Đông cung (nơi ở của Trịnh Cán, con trai Trịnh Sâm), còn Đoài cung là nơi ở của Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Đoài là quẻ cuối của Bát quái và thuộc về hướng Tây. Do kỵ húy Tây Đô vương Trịnh Tạc (1657 – 1682), nên chữ Tây đã được các chúa Trịnh thay bằng chữ Đoài. Đoài cung là cung điện phía tây trong Hậu cung của chúa Trịnh.

2.2. Đoài cung và đồ sứ Nội phủ thị đoài

Sinh thời, chúa Trịnh Sâm cho xây một cung điện riêng cho Tuyên phi họ Đặng. Theo các nguồn sử liệu thì xe kiệu, quần áo của Đặng Thị Huệ đều được sắm sửa như đồ dùng của chúa. Chúa cho ký kiểu bên Trung Hoa những món đồ sứ cao cấp để dùng trong cung điện của Tuyên phi.

Trong dòng đồ sứ ký kiểu thời chúa Trịnh thì những món đồ sứ hiệu đề Nội phủ thị trung là đồ dùng trong phủ chúa; đồ Nội phủ thị đông dùng trong Đông cung của thế tử; đồ Nội phủ thị hữu dùng trong cung của chính phi. Đời chúa Trịnh Sâm, đồ sứ Nội phủ thị hữu là đồ dùng trong cung của chính phi Hoàng Thị Ngọc Phương. Vì thế, những món đồ sứ chúa đặt làm riêng cho Tuyên phi họ Đặng được ghi hiệu đề Nội phủ thị đoài để phân biệt với đồ sứNội phủ thị hữu dùng trong Hữu cung của chính phi họ Hoàng.

Đặc điểm tiêu biểu nhất của đồ sứ Nội phủ thị đoài là hiệu đề không viết bằng màu lam dưới lớp men phủ như các hiệu đề Nội phủ thị trungNội phủ thị hữuNội phủ thị đông…Thay vào đó, các chữ Nội phủ thị đoài được chạm nổi bằng kaolin trên nền đất trắng. Kỹ thuật tạo hiệu đề này được người Trung Hoa gọi là “ám họa”, xuất hiện vào cuối triều Khang Hi (1662 – 1722), hoàn toàn khác với các kiểu viết hiệu đề bằng màu lam dưới lớp men phủ như trên các dòng đồ sứ ký kiểu khác. Việc chúa Trịnh Sâm dùng kỹ thuật này cho hiệu đề Nội phủ thị đoài nhằm chứng tỏ tuy đây là đồ sứ do Trịnh phủ đặt làm nhưng không phải là đồ sứ ký kiểu chính thức.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng khánh thọ đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Jochen May.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng khánh thọ đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Jochen May.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng khánh thọ, đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Jochen May.

Bát Nội phủ thị hữu vẽ long phụng khánh thọ, đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Jochen May.

Hiệu đề Nội phủ thị đoài khắc nổi dưới lớp men phủ theo kiểu ám họa.

Hiệu đề Nội phủ thị đoài khắc nổi dưới lớp men phủ theo kiểu ám họa.

Đồ án trang trí trên đồ sứ Nội phủ thị đoài chủ yếu thuộc hai motif sau:

– Motif thứ nhất vẽ hai chim phượng bay trên một khu vườn trồng cúc, lan, thông, liễu và núi đá. Trên đồ sứ Nội phủ thị hữu, chim phượng luôn kết đôi với rồng (long phụng triều nhật, long phụng khánh thọ…) nhưng trên đồ sứ Nội phủ thị đoài, chim phượng được vẽ cả đôi (phượng – hoàng) tỏ ý đây là đồ sứ dành cho ái phi. Trang trí này biểu đạt sự tôn vinh một tình yêu lâu bền (cây thông), vĩnh cửu (hòn đá) và hòa hợp (đôi chim phượng); giữa một người đàn ông (Trịnh Sâm) hoàn hảo và thanh liêm (trúc và lan) với một người đàn bà (Đặng Thị Huệ) đáng yêu và kín đáo (liễu và cúc). Đồ án trang trí này xuất hiện trên các món đồ như: ống cắm bút4 (sưu tập Vương Hồng Sển ở TPHCM), ống phóng5 (sưu tập Cổ Trung Ngươn ở Paris), ấm trà6 (sưu tập Phạm Hy Tùng ở TPHCM).

Ống phóng Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Cổ Trung Ngươn.

Ống phóng Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Cổ Trung Ngươn.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Vương Hồng Sển.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Vương Hồng Sển.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Boston.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Boston.

– Motif thứ nhì vẽ phong cảnh sơn thủy, với hồ nước và những cây liễu rũ bóng ở ven hồ, thỉnh thoảng có hình nhân vật đi kèm, trên những món đồ có kích thước khác nhau:

+ Một chiếc đĩa7 vẽ tòa thủy đình ẩn dưới bóng một cây liễu. Cây liễu mềm mại là biểu tượng của người phụ nữ trẻ đẹp, yêu kiều và hiền hậu. Người Trung Hoa gọi cây liễu là fengliu(phong liễu: cây tình yêu). Mặt ngoài đĩa vẽ cảnh khu vườn với những hòn đá, cây liễu, lầu tạ và hai con chim trĩ đậu trên lan can đang nhìn nhau. Trĩ là loài chim tượng trưng cho người có nhan sắc và quyền lực. Sách Hoàng Lê nhất thống chí chép rằng Tuyên phi Đặng Thị Huệ được chúa Trịnh Sâm cho tham gia triều chính và chúa thường xuyên tham vấn nàng về chính sự. Vì thế, đồ án trang trí trên chiếc đĩa này hàm ý tôn vinh sắc đẹp và quyền lực của Đặng Thị Huệ, ái phi của chúa Trịnh Sâm.

+ Một chiếc đĩa khác8 thuộc sở hữu của Bảo tàng Mỹ thuật Boston, vẽ cảnh hai người đứng cạnh một hiên nhà ở bên hồ nước, dưới bóng một cây liễu. Hình ảnh ngôi nhà với bộ mái được thể hiện bằng những dải màu xanh đậm nhạt xen kẽ và nền nhà lát gạch hình thoi lấy ý từ tranh khắc dân gian Trung Quốc, cụ thể là từ bức tranh Tháng Bảy, tháng Tám, tháng Chín (ảnh 5), hoặc từ các đồ án trang trí trên đồ sứ đời Thuận Trị (1644 – 1662) và đời Khang Hi (1662 – 1722). Hình vẽ nhân vật diễn tả một thị nữ đang chơi đàn, còn Tuyên phi thì ngồi trên hòn đá, ngắm cảnh và chỉ về hướng hai con uyên ương đang bơi lội dưới hồ. Uyên ương là biểu tượng của hạnh phúc và thủy chung, theo truyền thuyết loài chim này suốt đời gắn bó bên nhau và sẽ chết nếu bị chia rẽ. Để nhấn mạnh tính biểu tượng thông qua hình ảnh uyên ương, họa sĩ đã phóng đại các ngón tay đang chỉ đôi uyên ương của Tuyên phi. Mặt ngoài chiếc đĩa này vẽ đôi chim trĩ đậu trên hòn đá, giữa các khóm cúc, lan và cây lựu đang cho quả. Quả lựu có nhiều hạt tượng trưng cho khả năng sinh sản (lựu khai bách tử: lựu nở trăm con). Trang trí trên chiếc đĩa này không chỉ miêu tả phong cảnh trong Đoài cung mà còn là một lời chúc cho chủ nhân Đoài cung thông qua các hình vẽ: chim trĩ (ngụ ý sắc đẹp và quyền hành), đôi uyên ương (biểu trưng cho sự chung hưởng hạnh phúc), tảng đá (tượng trưng cho sự bền vững) và trái lựu (lời cầu mong có nhiều con cái).

Tranh khắc dân gian Tháng Bảy, tháng Tám, tháng Chín của Trung Quốc, đời Khang Hi.

Tranh khắc dân gian Tháng Bảy, tháng Tám, tháng Chín của Trung Quốc, đời Khang Hi.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm. Bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm (mặt đáy). Bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương.

Đĩa Nội phủ thị đoài đời chúa Trịnh Sâm (mặt đáy). Bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương.

Đĩa Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Loan de Fontbrune

Đĩa Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Sâm. Sưu tập Loan de Fontbrune

  1. Mối tương quan giữa đồ sứ Nội phủ thị đoài với đồ sứ Nội phủ thị trung và đồ sứ Nội phủ thị bắc

Tại Bảo tàng Châu Á và Thái Bình Dương ở Warsaw (Ba Lan) có một chiếc đĩa Nội phủ thị đoài9 cũng trang trí đề tài phong cảnh – nhân vật nhưng theo một motif khác.

Đĩa này do ông Tadeusz Findzinski, nguyên đại sứ Ba Lan tại Hà Nội từ năm 1962 đến năm 1965, mua tặng cho bảo tàng này cùng với hai trăm cổ vật khác. So với hai đĩa Nội phủ thị đoài nói trên thì đĩa này lớn hơn, đường kính miệng 18,5cm. Lòng đĩa vẽ phong cảnh hồ nước, ven hồ có một ngôi nhà nhỏ ở đằng trước vách núi, một cây liễu, một lan can và một người phụ nữ. Núi đá trong đồ án này nằm ở bên phải, không tuân theo các qui luật phối cảnh, mà vẽ vươn lên cao theo kiểu vẽ núi rất thịnh hành vào giai đoạn “mạt Minh – sơ Thanh”. Kiểu vẽ này cũng thường được sao chép trên những đồ sứ Nhật Bản vào thế kỷ XVII – XVIII. Người phụ nữ trong đồ án này, ám chỉ Đặng Thị Huệ, đứng trước lan can, tay phải chỉ về hồ nước, và họa sĩ cũng vẽ phóng đại các ngón tay để nhấn mạnh ý nghĩa của bức tranh. Mặt ngoài đĩa vẽ phong một ông quan cỡi ngựa đi trước, một tiểu đồng gánh đồ theo hầu phía sau và một người chèo thuyền trên hồ nước. Theo tôi, hình vẽ này mô tả cảnh Tết Trung thu mà chúa Trịnh Sâm tổ chức hàng năm tại cung Thủy Liên bên bờ Tây Hồ cho Tuyên phi vui chơi. Những ngày Tết Trung thu này đã được mô tả trong Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án: “Mỗi năm đến Tết Trung thu, từ trước mấy tháng, chúa phát gấm trong cung ra để làm hàng trăm hàng nghìn đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Đến ngày, chúa ngự giá ra chơi Bắc cung. Cung có ao gọi là Long Trì, rộng nửa dặm. Trong ao trồng rất nhiều hoa sen, hoa súng. Ven ao đắp đất chồng đá làm núi. Chỗ cao chỗ thấp, dàn dặt có hình có thế. Có những chỗ khuỷu để cho nhạc công ngồi đàn. Bờ ao trồng hàng mấy trăm cây phù dung, treo đèn ở trên. Sóng trăng dập dờn. Trông xa tựa hồ hàng vạn ngôi sao sáng. Nội thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn mặc áo đàn bà, bầy hàng ở địa phương bán những tạp hóa cùng các đồ hoa quả chả rượu, thức gì cũng có, chồng chất như núi. Cung nhân qua lại mưa bán, vừa mua vừa cướp, không cần hỏi giá cả bao nhiêu; đua nhau đem những câu hát quê ra đối chơi với nhau, tiếng cười đùa vang cả trong ngoài. Nửa đem, chúa ngự kiệu đến ao xuống thuyền. Quan hầu và các phi thiếp gõ ván hò reo, đi lại vi vút và lênh đênh trên sông. Chợt lúc lại đánh đàn, lại thổi sáo, lại ca hát, tiếng vang lang lảnh, khiến người tưởng như lên chơi cung Quảng-hàn mà nghe khúc nhạc Quân-thiên. Chúa nhìn ngắm lấy làm vui sướng, đến mãi gà gáy mới về”.10

Motif này vốn được trang trí ở mặt ngoài một chiếc đĩa Nội phủ thị bắc vẽ hai ông quan cưỡi ngựa và hai tiểu đồng đi sau sửa soạn qua cầu để đi dạo; trên sông có một ông chài ngồi trên thuyền, với hai câu thơ mô tả cảnh này: Giang sơn trình tú lệ. Hương thấn mã đề khinh (Gấm vóc non sông trưng vẻ đẹp. Áo thơm, vó ngựa nhẹ đường bay).11 Nhưng khác với hình vẽ trên chiếc đĩa Nội phủ thị đoài của Bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương ở Warsaw, hình vẽ trên đĩa Nội phủ thị bắc không hàm ý miêu tả cảnh Trịnh phủ mà chỉ là hình minh họa cho nội dung bài thơ.

Trong những món đồ Nội phủ thị trung đời chúa Trịnh Sâm, có một chiếc đĩa có hình vẽ gần gũi với các motif trang trí trên đồ Nội phủ thị đoài. Đó là chiếc đĩa trong sưu tập của Loan de Fontbrune ở Pháp12, song thủ pháp trang trí trên đĩa này tỉ mỉ và tinh tế hơn; hình vẽ được thực hiện cẩn trọng, với những đường viền kép, miêu tả một phụ nữ ngồi sau chiếc bàn có hai cung nữ phục vụ, trong một khu vườn có lan can, núi đá và cây liễu tô điểm. Trên bàn có cây ngọc như ý và một cành đào, ngụ ý “thượng thọ như ý”, vì quả đào là thức ăn của các vị tiên, còn cây ngọc như ý là lối kiểu ngụ ý bởi các từ đồng âm. Lời chúc này còn được nhấn mạnh bởi sự hiện diện của hòn non bộ, biểu tượng của tính vững chắc, thường trực và yên ổn. Thái độ của hai cung nữ đầy sự khiêm tốn và tôn kính. Vẻ thanh nhã của dây thắt lung dài và lượn sóng, lặp lại sự mềm dẻo của cành liễu, khiến cho motif trang trí này trở nên tinh tế, ý nhị và mang tính nữ. Theo đó, tôi cho rằng hình trang trí trên chiếc đĩa này là chúc “thượng thọ như ý” dành cho Tuyên phi họ Đặng.

Trên các đĩa Nội phủ thị đoài và đĩa Nội phủ thị trung nêu trên, lần đầu tiên hình tượng của một nhân vật đời chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi Đặng Thi Huệ, đã được họa sĩ thể hiện, với những hàm ý khá rõ. Vả lại, những cảnh vật được miêu tả trên các món đồ này không phải là những phong cảnh tưởng tượng mà là một phong cảnh có thực trong Trịnh phủ, nơi từng được Lê Hữu Trác miêu tả với sự cảm phục: “Tôi nhờ một người lính dẫn lối cho tôi sang bên cửa hữu phủ đường, đi loanh quanh chừng độ một quãng, chỗ nào cũng thấy lâu đài, cung cấm, rèm châu, cột ngọc lộng lẫy nguy nga. Hai bên đường cây cỏ tốt tươi, trăm hoa đua nở, gió xuân hây hẩy, sực nức mùi hương. Nào là chim muông bay nhảy, tiếng hót véo von, lại có núi non bộ cao chót vót, cây cổ thụ um tùm, cầu bắc qua hồ, nước trong leo lẻo, tường xây quanh đất, đá sắc đỏ xanh. Tôi vừa đi vừa xem, cảnh trí tuyệt vời, có lẽ chẳng kém gì Bồng Lai tiên cảnh vậy”.13

Phía sau Trịnh phủ có những vườn cây sum suê, với các “lan can bằng cẩm thạch”, những hòn non bộ được chăm chút tinh xảo, những cây cối mà hương hoa thơm ngát không gian, những loại chim quý tiếng hót thánh thót, những hồ nước nơi các cặp uyên ương bơi lội giữa những đóa sen trắng và hồng. Phạm Đình Hổ đã miêu tả sự xa hoa Trịnh phủ qua Vũ trung tùy bút như sau: “Bao nhiêu những loại trân cầm di thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa (Trịnh Sâm) đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông giống như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết bất tường”.14

Như vậy, chúa Trịnh Sâm cho vẽ trên đồ sứ Nội phủ thị đoài hình ảnh của Tuyên phi để lưu niệm tình yêu của mình. Mặt khác, chúa lại chọn miêu tả ái phi trong cảnh khuôn viên Trịnh phủ vừa để nhấn mạnh sắc đẹp và sự duyên dáng của nàng (qua hình tượng cây liễu) vừa biểu dương vẻ đẹp thiên đường của hoa viên trong phủ chúa.

(Trần Đức Anh Sơn biên tập, hiệu đính và bổ túc)

Chú thích

Kiểu vẽ guozheng (quá xứng) thể hiện một hình trang trí thay đổi trên toàn bộ bề mặt của đồ gốm. Nét vẽ bắt đầu từ mặt ngoài và tiếp nối ở trong lòng hiện vật. Ở Trung Hoa, kỹ thuật này thường sử dụng để vẽ cành hoa mẫu đơn nên cũng được gọi là guozhihua (quá chi hoa).

Quán tẩy hiệu đề Nội phủ thị hữu, đường kính miệng: 29,5 cm. Nguyên thuộc sưu tập Vương Hồng Sển (TPHCM), nay thuộc sở hữu của Bảo tàng lịch sử Việt Nam TPHCM.

3 Bát hiệu đề Nội phủ thị hữu, đường kính miệng 19,5 cm. Nguyên thuộc sưu tập Cổ Trung Ngươn, nay thuộc sưu tập Loan de Fontbrune (Paris, Pháp). Ngoài ra, còn có một chiếc bát tương tự thuộc sưu tập Hồ Đình ở Pháp, đã được nhà đấu giá Drouot (Pháp) đấu giá ngày 12.12.1996 với giá 39.000 francs, mức giá kỷ lục cho một món đồ sứ ký kiểu tại thời điểm đó.

Ống cắm bút hiệu đề Nội phủ thị đoài, cao 15 cm. Nguyên thuộc sưu tập Vương Hồng Sển, nay thuộc sở hữu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM.

Ống phóng Nội phủ thị đoài, cao 15cm. Nguyên thuộc sưu tập Cổ Trung Ngươn, nay thuộc sưu tập Loan de Fontbrune.

Ấm Nội phủ thị đoài. Sưu tập Phạm Hy Tùng.

Đĩa Nội phủ thị đoài, đường kính miệng 8 cm. Nguyên thuộc sưu tập Vương Hồng Sển, nay thuộc sở hữu Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM.

8 Đĩa Nội phủ thị đoài, đường kính miệng 14,5 cm. Hiện vật thuộc sở hữu của Bảo tàng Mỹ thuật Boston (Mỹ). Ngoài ra, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM cũng sở hữu 1 hiện vật tương tự, cả hình dáng, trang trí và kích thước.

9 Đĩa Nội phủ thị đoài, đường kính miệng: 18,5cm. Hiện vật thuộc sở hữu của Bảo tàng Châu Á và Thái Bình Dương.

10 Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, Hà Nội, 1943, tr. 19-20.

11 Đĩa Nội phủ thị bắc, đường kính miệng 18m. Sưu tập Phạm Hy Tùng. Ngoài ra còn có một hiện vật tương tự, nguyên thuộc sưu tập Vương Hồng Sển, nay thuộc sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TPHCM. Trong lòng đĩa này vẽ phong cảnh hồ nước với thủy tạ và cây liễu. Bên trong thủy tạ có hai người ngồi câu cá. Theo Phạm Hy Tùng, hình vẽ này miêu tả cảnh Tết Trung thu do chúa Trịnh Sâm tổ chức hàng năm tại cung Thủy Liên bên bờ Tây Hồ. Theo tôi, hình vẽ này không phản ánh cảnh Tết Trung thu trong cung Thủy Liên đời chúa Trịnh Sâm, bởi lẽ nếu hình vẽ này miêu tả đêm rằm tháng Tám, vậy tại sao vẽ mặt trời mà không vẽ mặt trăng như đĩa Nội phủ thị đông? Tôi cho rằng hình vẽ này chỉ là hình minh họa cho mấy câu thơ: “Lệ nhật kim ba được cầm lânNoãn phong xuy lãng sạ phù trầm” đề trong lòng đĩa.

12 Đĩa Nội phủ thị trung, đường kính miệng 16m. Sưu tập Loan de Fontbrune.

13 Lê Hữu Trác, Thượng kinh ký sự (bản dịch của Thiên Lý Nguyễn Di Luân), Duy Minh thư xã, Hà Nội, 1945, tr. 75.

14 Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút (bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến), Nxb Văn nghệ TPHCM, 1998, tr. 21-22. 


COPYRIGHT BY ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
Facebook chat