BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉) - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
Scroll top

bàn tròn thưởng ngoạn

Liên kết

Tỉ giá

Tỷ giá ngoại tệ Vietcombank ngày :


Thành phố Loại vàng Giá bán Giá mua
Chi tiết sản phẩm

BỘ CHÉN TRÀ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ - HIỆU ĐỀ MỸ NGỌC (美玉)

Danh mục: Vietnam Custom-Made Porcelains - Đồ sứ ký kiểu - 越南文物 - 寄矫陶瓷器

MỘT CÁCH NHÌN VỀ VUA MINH MẠNG

QUA BỘ TRÀ SỨ KÝ KIỂU TÍCH NGƯU LANG CHỨC NỮ

Bài viết của Nam Quân

Các sử gia phác họa nhân vật của mình qua sự kiện trọng yếu có liên quan vận mệnh nước nhà hay ảnh hưởng đến sự phát triển của một giai đoạn lịch sử bằng chính nhân sinh quan, thế giới quan và phương pháp luận của chính họ. Các thế hế sau lại làm việc trên cung cách đó mà đôi khi còn bị ảnh hưởng, tác động từ quan điểm được cho là chính thống đương thời làm cho hình ảnh , tính cách, tư tưởng thật sự của nhiều danh nhân trong lịch sử nước nhà trở nên không chân thật thậm chí khác hẳn. Chúng tôi không phải là sử gia hay nhà nghiên cứu nhưng chúng tôi có điều kiện được tiếp xúc các hiện vật có liên quan đến một số nhân vật lịch sử. Vượt lên mặc cảm những hiểu biết hạn chế của mình, chúng tôi góp vào những thông tin liên quan để phần nào giúp các thân hữu xung quanh có thêm những tư liệu về những nhân vật lịch sử.

Cách nay không lâu, chúng tôi có duyên lành được thưởng ngoạn bộ chén trà sứ ký kiểu xanh trắng “một tống ba quân”, hiệu đề 美玉 – Mỹ Ngọc, vẽ tích Ngưu Lang – Chức Nữ. Bộ trà có dáng vững chãi mà thanh bai, thai chỉnh chu mà thanh nhã, cốt bạch đôn tử trắng bóng, họa pháp tài hoa, nét bút đậm đà mà không nặng nề, chi tiết mà không rối rắm, men lam xanh thẩm trên nền sứ trắng nõn nà,…xứng đáng là đồ sứ thượng phẩm của trấn Cảnh Đức nửa đầu thế kỷ 19. Từ các yếu tố trên, chúng ta dễ nhận biết đây là dòng đồ ký kiểu thời Nguyễn Thánh Tổ – Minh Mạng.

Tuy nhân xét như thế song chúng tôi vẫn còn chút băn khoăn. Bởi vì, theo những tính chất lý tính thì đây là đồ sứ ký kiểu thời vua Minh Mạng đồng nghĩa việc từ kiểu dáng, đến tuồng tích là theo ý chỉ của Ngài mà tích này có vẽ không hợp với những gì mà các sử gia đã phác họa và nhận xét về tính cách và tư tưởng của Ngài. Chúng tôi tiếp tục tìm hiểu thì mới phát hiện một góc nhìn khác về vấn đề này.

Chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ là một câu chuyện dân gian khá phổ biến ở các nước Đông và Đông Nam Châu Á, ở mỗi nơi có chút ít thay đổi mang tính địa phương. Chúng tôi xin lược kể lại câu chuyện theo người Việt:

Ngưu Lang (chàng Ngưu hay chàng chăn trâu), được sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Chàng có hai anh, em.  Sau khi bố mẹ qua đời. Anh và chị dâu của chàng đã lấy hết những gì có thể, đuổi chàng ra khỏi nhà chỉ với một con trâu già yếu gần chết. Chàng vui vẻ nhận không hề phàn nàn. Bằng sự tình thương và sự chăm sóc chu đáo, con trâu già của Chàng đã trở nên khỏe mạnh, to lớn.  Để trả ơn chàng, trâu đã giúp chàng gặp Chức Nữ (nàng Chức hay cô gái dệt lụa). Chức nữ là con gái của Thiên đế và thiên hậu. Hai người nên duyên chồng, vợ xây dựng mái ấm tại nhân gian với hai đứa con xinh xắn trong một mái nhà tranh. Cho đến khi Thiên hậu phát hiện và không đồng ý mối tình tiên – tục này theo Thiên luật nên đã bắt Chức nữ về tiên giới. Phải xa chồng con, Chức nữ đau buồn khóc suốt, Thiên đế chạnh lòng bảo Thiên hậu cho Nàng và chồng con mỗi năm gặp nhau một lần qua cầu ô thước (cầu quạ) vào ngày mồng 7 tháng 7.

Vua Minh Mạng là một người mạnh mẻ, cứng rắn, nghiêm túc,…xây dựng nhà nước trên nền tảng tư tưởng pháp trị, vận hành theo cơ chế pháp quyền nên một câu chuyện tình cảm khá bi đát và có vẻ chống đối “thiên điều” thì có vẻ không phù hợp với tính cách và tư tưởng của Ngài. Nhưng khi biết về đời tư của Ngài:

  • Là một người chung tình rất mực, Người vợ đầu tiên của Ngài mất sau khi hạ sinh một hoàng nam. Khi lên ngôi Đế cho đến cuối đời Ngài không tấn phong hoàng hậu cho vị phi nào.
  • Là một người con có hiếu. Hiếu hạnh là một hạnh được các chúa và vua Nguyễn rất trọng. Trong thụy hiệu của các chúa (8/9) là có chữ “hiếu” như Hiếu văn, Hiếu chiêu, Hiếu triết,…các vua (6/7 vị vua có thụy hiệu): Đại hiếu, Chí hiếu, Thuần hiếu,...
  • Là một người đề cao sự phấn đấu, cầu tiến. Trong suốt cuộc đời Ngài luôn học tập, rèn luyện dù ở ngôi cao.

Sau một thời gian tìm hiểu, chúng tôi mới phát hiện rằng có thể vua Minh Mạng nhìn câu chuyện này với nhiều tầng ý nghĩa khác nhau khi Ngài cho ký kiểu tích này trên bộ trà.

  • Tình riêng: Nhân hoàng hậu  mất sớm vào một ngày tháng 7 để lại cho Ngài một hoàng nam (sau này là vua Thiệu Trị), những tình cảm sâu sắc Ngài dành cho người vợ vắn số cứ da diết. Mỗi năm vào ngày giỗ vợ cũng vào

"Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng”

để rồi “Lòng nào mà chẳng thiết tha”. Tình cảnh ấy khác chi Chàng Ngưu  chuyện cũ…

  • Quan điểm: Ngài có quan điểm về văn hóa rất rõ ràng là văn hóa có trách nhiệm đề cao đạo đức, cái thiện,…như đôi câu đối treo ở Duyệt Thị Đường do Ngài ngự chế có nội dung như sau:

Âm nhạc tinh trần hòa kỳ tâm dĩ dưỡng kỳ chí

Nghiên xuy tề hiến thủ kỳ thị nhi giới kỳ phi

Dịch nghĩa:

Âm nhạc cùng phô bày, hoà lòng người để nuôi dưỡng chí khí

Thiện ác đồng trình diện, khiến giữ được cái tốt (cái đúng) mà giới hạn cái xấu (cái sai).

Câu chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ có những điểm sáng nào?

  • Gương hiếu thảo: Cả Ngưu Lang và Chức Nữ đều là những người con hiếu thảo dù có thành phần xuất thân khác và mỗi người thể hiện đạo hiếu ở một góc độ khác nhau. Ngưu Lang xuất thân nghèo khó, không được học hành nhưng chàng có hiếu với cha mẹ và “có hiếu” với cả anh, chị. Hiếu đối với Chàng là tự nhiên không từ một khuôn mẫu nào nhưng nó thật sâu sắc: hiếu khi cha mẹ còn sống; hiếu khi cha mẹ không còn chính là thuận thảo với anh, chị; hiếu với cha mẹ vợ là không oán hận khi bị buộc phải chia ly. Khi phải xa chồng con Chức Nữ khóc, khóc nhiều nhưng không hề oán hận, hờn trách Thiên đế và Thiên hậu. Nàng khóc vì yêu chồng, khóc vì thương con, khóc cho gia đình tan vỡ,… những giọt nước mắt tinh khiết, trong trẻo của một người thiếu phụ vì hoàn cảnh phải xa rời mái ấm. Nàng xuất thân cao quý vào làm vợ nhà khốn khó vẫn trọn phận làm vợ cùng chồng tạo dựng một gia đình hạnh phúc. Chữ hiếu của Nàng thể hiện một cách tinh tế như thế.
  • Gía trị của chân hạnh phúc: Hạnh phúc được xây dựng trên tình yêu chân thành, chịu thương chịu khó chứ không trên vật chất, giai cấp,…Và vì thế, tình yêu và hạnh phúc không là quà tặng cho riêng ai mà đến từ những người biết ươm mầm và nuôi dưỡng nó.
  • Giá trị của không trọn vẹn: Trong cuộc sống, những người yêu thương nhau được gần nhau là hạnh phúc.  Nhưng khi không được gần nhau thì phải biết trên trọng những phút giây có thể được bên nhau. Hơn nữa, không trọn vẹn chính là điều làm vĩnh cửu tình yêu và đóng băng hạnh phúc. Như câu chuyện này, nếu họ được ở bên nhau mãi mãi thì câu chuyện đôi khi đã đi vào quên lãng, mấy ai còn bang khuâng trước những giọt mưa ngâu mà cảm niệm biết bao giá trị cao quý của một chuyện tình thiên cổ.
  • Giá trị của sự chân thành: Chức Nữ yêu Ngưu Lang vì sự chân thành của Ngưu Lang; Thiên đế cho phép họ đoàn viên một năm một lần vì sự chân thành của Chức Nữ, đàn quạ nguyện bắt cầu vì sự chân thành của hai người,…
  • Thượng tôn pháp luật trên cơ sở thấu lý đạt tình: Các nhân vật trong câu chuyện cuối cùng đều rất tuân thủ Thiên điều. Tuy nhiên, cả Thiên đế, Thiên hậu đến đàn quạ đều đồng tình cho gia đình họ đoàn tụ một năm một lần.
  • Yêu quý muôn loài: Ngưu Lang yêu quý trâu già như người bạn tốt, tận tình chăm sóc cho trâu bằng từ tình cảm  vô tư không vụ lợi.

Qua một số phân tích trên ta thấy những giá trị thực tế của tác phẩm này đã vượt lên là một tác phẩm kể về một chuyện tình bi đát bên cạnh giải thích một số hiện tượng tự nhiên trong tháng bảy mà là một tác phẩm mang những giá trị nhân văn sâu sắc trong quan điểm nhân sinh của Tổ tiên mình . Mặt khác, nó đã nói lên phần nào một góc khác trong tâm tư, tình cảm của một vị Hoàng đế nước Việt Nam thời quân chủ võ công đủ hùng bá phương Nam, cai trị đủ làm khuôn thước cho hậu thế mà cũng chan chứa tình yêu người thân, gia đình, nhân dân và vạn hữu. Ngài đã rất tinh tế khi đưa câu chuyện dân gian này lên đồ trà ký kiểu. Hôm nay, khi mỗi độ đầu thu, mưa ngâu rơi rả rích, ngắm bộ chén này mà miên man về một chốn xa xăm,… lòng không khỏi chạnh lòng mà tự hỏi phải chăng đây là một tác phẩm đã được đông khô từ nước mắt của bậc quân vương khóc cho người vợ trẻ?

COPYRIGHT BY ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
Facebook chat