ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2 - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2 - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2 - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2 - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU

ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2 - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2 - ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
Scroll top

bàn tròn thưởng ngoạn

Liên kết

Tỉ giá

Tỷ giá ngoại tệ Vietcombank ngày :


Thành phố Loại vàng Giá bán Giá mua
Hồ Chí Minh Vàng SJC 1L - 10L 36.430 36.250
Vàng SJC 1L - 10L 36.430 36.250
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 36.190 35.790
Vàng nhẫn SJC 99,99 0,5 chỉ 36.290 35.790
Vàng nữ trang 99,99% 36.140 35.440
Vàng nữ trang 99% 35.782 35.082
Vàng nữ trang 75% 27.258 25.858
Vàng nữ trang 58,3% 21.222 19.822
Vàng nữ trang 41,7% 15.222 13.822
Hà Nội Vàng SJC 36.450 36.250
Đà Nẵng Vàng SJC 36.450 36.250
Nha Trang Vàng SJC 36.450 36.240
Cà Mau Vàng SJC 36.450 36.250
Buôn Ma Thuột Vàng SJC 36.450 36.240
Bình Phước Vàng SJC 36.460 36.220
Huế Vàng SJC 36.450 36.250
Biên Hòa Vàng SJC 36.430 36.250
Miền Tây Vàng SJC 36.430 36.250
Quãng Ngãi Vàng SJC 36.430 36.250
Đà Lạt Vàng SJC 36.480 36.270
Long Xuyên Vàng SJC 36.430 36.250

ẤM RƯỢU DÁNG CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC - PHẦN 1, PHẦN 2

16-07-2017

ẤM RƯỢU CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC

(PHẦN 1)

Bài viết của Nhã Thức

Trong lịch sự Việt Nam, có những vị hoàng đế sáng lập triều đại từ việc đánh đuổi ngoại xâm như Ngô Tiên Chủ, Lê Thái Tổ … có những vị hoàng đế sáng lập triều đại từ đảo chính cung đình như Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông…có những vị hoàng đế sáng lập triều đại từ dẹp tan nội chiến như Đinh Tiên Hoàng Đế hay Nguyễn Thế Tổ (Vua Gia Long). Mỗi vị sáng lập triều đại đều là bậc tài năng xuất chúng và tùy vào hoàn cảnh mà mỗi vị sẽ mang trên mình một sứ mệnh khác nhau. Và hình hài đất nước ngày càng hoàn thiện, dân tộc ngày càng to lớn, dân trí ngày càng phát triển, thế giới ngày càng biến động…thì gánh nặng trên vai người đứng đầu đất nước, dân tộc ngày càng nặng nề. Hào quang anh hùng dân tộc giúp những vị hoàng đế sáng lập triều đại từ việc đánh đuổi ngoại xâm thống nhất nhân tâm và góp phần không nhỏ trong việc thống nhất văn hóa với tư tưởng “phục nguyên”. Còn các hoàng đế sáng lập triều đại từ đảo chính cung đình thì phần lớn chỉ thay đổi thể chế còn văn hóa chỉ nhẹ nhàng thay đổi vì ngại lòng dân hoài cố không theo. Trong khi đó, những vị hoàng đế sáng lập triều đại từ dẹp tan nội chiến thì phức tạp hơn rất nhiều do lòng dân phân tán, văn hóa bất đồng…tàn tích của các thế lực cát cứ và tiền cát cứ vẫn còn dư âm chỉ một thất thố đủ thổi bùng nội chiến trở lại. Sự khó khăn này càng cao nếu thời gian chia cắt càng lâu vì tư tưởng, chính trị và văn hóa đã phát triền theo những hướng riêng.

Bản đồ của H. Moll (người Đức, 1736) viết là tên vịnh Bắc Bộ là Gulf of Cochinchina.

Bản đồ của S. Van Esveldt (người Hà Lan, 1745) viết là tên vịnh Bắc Bộ là G. van Cochinchina.

Bản đồ của Bowen & Gibson (người Anh, 1792) viết là tên vịnh Bắc Bộ là Gulf of Cochinchina.

Bản đồ của H. Moll (người Đức, không đề năm) viết là tên vịnh Bắc Bộ là Gulf of Cochinchina.

Bản đồ khuyết danh xuất bản ở London vào thế kỷ XVIII, viết là tên vịnh Bắc Bộ là Gulf of Cochinchina.

 

Lịch sử nước nhà, có nhiều cuộc phân ly, nhưng lần phân ly lâu nhất là thời Hậu Lê với sự phân chia Trịnh – Nguyễn. Bắt đầu từ khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận – Quảng năm 1558 cho đến khi Nguyễn Vương – Nguyễn Phúc Ánh thống nhất sơn hà năm 1802 là 244 năm. Cuộc phân ly này không chỉ dừng lại ở việc chia cắt về địa lý mà còn cả tư tưởng, chính trị và văn hóa ở cả tầng lớp lãnh đạo và dân gian. Cuộc phân ly ấy sâu sắc đến mức người nước ngoài xem đây là hai quốc gia độc lập: Ở thế kỷ 16 –17 – 18, Người Nhật Bản gọi Bắc Hà là An Nam quốc và Nam Hà là Quảng Nam quốc; Người phương Tây gọi Bắc Hà là Annam hoặc Tunquin và Nam Hà là Cochinchina… Khi Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế, kế thừa đại thống, thống nhất sơn hà thì việc hòa hợp hòa giải dân tộc là một việc làm cấp thiết và mang yếu tố sống còn của triều đại, dân tộc và đất nước.

Bản đồ thể hiện các vùng quản lý của chúa Trịnh và chúa Nguyễn

Mở đầu 平吳大告 Bình Ngô Đại Cáo, Ức Trai Tiên sinh – Nguyễn Trãi đã viết:

仁義之舉要在安民

弔伐之師莫先去暴

Âm cổ:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân

Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo

Nghĩa:

Việc nhân nghĩa, cốt ở an dân

Quân điếu phạt, trước lo trừ bạo

Qua đó, chúng ta thấy tư tưởng của người xưa “an dân” và “trừ bạo” là hai yếu tố then chốt quyến định chính nghĩa và thành công của đội quân mà sau này sẽ là triều đại. Vậy người xưa đã quan niệm “an dân” và “trừ bạo” như thế nào? Và thực thi những gì để làm hai điều đó?

(Xin vui lòng xem tiếp phần 2)

ẤM RƯỢU CHỮ THỌ THỜI GIA LONG – TUYÊN NGÔN VỀ HÒA HỢP – HÒA GIẢI DÂN TỘC HƠN HAI TRĂM NĂM TRƯỚC

(PHẦN 2)

Bài viết của Nhã Thức

Chân dung Ức Trai Tiên Sinh - Nguyễn Trãi (1380 - 1442)

Nguyên văn “Bình Ngô đại cáo”Trích trong Hoàng Việt Văn Tuyển phát hành năm 1825, bản lưu trữ tại thư viện Quốc gia Việt Nam

 

Trong phần này chúng ta dành chút thời gian để tìm hiểu về quan niệm “an dân” và “khử bạo”

An dân

Chữ an “安” được hình thành từ bộ miên “宀” ở trên và bộ nữ “女” ở dưới. Bộ miên chỉ mái nhà, bao trùm, lợp, che chở…; bộ nữ chỉ người phụ nữ. Qua chiết tự như trên, chúng ta phần nào hiểu được quan điểm của người xưa về chữ an trong cụm từ “an dân”

  • An là che chở và chăm sóc. Do bộ miên là mái nhà biểu thị sự che chở, bộ nữ biểu hiện người mẹ, người vợ nên hàm ý sự chăm sóc.
  • An là có được một gia đình hay đúng hơn là mái ấm: có nhà, có vợ.
  • An là sự sinh sôi, phát triển trong theo quy luật vì phụ nữ là biểu hiện của sinh sản, mái nhà là biểu hiện của nề nếp, quy luật.
  • An là tôn ti, trật tự do nữ là biểu hiện của âm mà âm là chỉ sự tiêu cực, người tiểu nhân…đã được thúc quản, bao trùm: âm tiêu dương trưởng. Mặt khác, âm còn là biểu tượng của nền tảng, của đất mà đất được bồi đắp tức xây nền vậy.

Từ đó, chúng ta nhận thấy:

  • An dân là che chở và chăm sóc cho dân.
  • An dân là làm cho mỗi người dân có được một mái ấm, đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần.
  • An dân là làm sao cho người dân được sinh sống và phát triển theo luật pháp và phong hóa.
  • An dân là khống chế sự tiêu cực để phát triển cái tích cực, chân chính. Hay còn ý nghĩa là vun bồi nền tảng mà “dân vi bản” “dân là gốc” mà gốc của con người là đạo đức nên an dân là tạo điều kiện để xây đắp, vun bồi đạo đức của người dân.

Chữ "An" được viết theo lối Lệ thư (cân đối và chính trực)

 

Và nếu nhìn tự dạng của của chữ “an” “安” thì gần như đối xứng và cân bằng nên an dân phải trên cơ sở công bằng và chánh trực.

Khử bạo

Khử “去” là trừ bỏ, loại bỏ cái không phù hợp. Khử khác với tiêu diệt “消滅” là hủy diệt, làm mất hẳn đi hay triệt tiêu “撤消” là làm cho mất đi hoàn toàn. Như “khử trùng” có nghĩa là chỉ loại bỏ những vi khuẩn gây hại cho vật chủ chứ không phải tiêu diệt tất cả.

Bạo “暴” là hung dữ, tàn ác, làm hại, hiếp đáp, bùng phát. Trong thiên Vũ Thành 武成 của Thư Kinh 書經 có câu: "Bạo điễn thiên vật" 暴殄天物 nghĩa là tận diệt chim muông cây cỏ sinh vật; Trong Nam Hoa Kinh 南華經 của Trang Tử 莊子 có câu: “Dĩ chúng bạo quả” 以衆暴寡 nghĩa là lấy nhiều hiếp ít.

Từ đó, chúng ta nhận thấy:

  • Khử bạo là trừ bỏ, loại bỏ đi cái có hành hành động hung dữ, tàn ác, làm hại, hiếp đáp cái đáng được tồn tại và phát triển.
  • Khử bạo không phải tiêu diệt hoàn toàn tất cả những gì liên quan đến “bạo” mà chỉ trừ bỏ cái thành phần chủ chốt tạo ra nó để trả lại sự phát triển bình thường đáng có.

Như vậy, “an dân” và “khử bạo” là hay mệnh đề bổ sung cho nhau và nối tiếp nhau: khi dân vì bạo làm cho bất “an” thì người anh hùng có sứ mệnh là khử bạo, khử bạo rồi thì phải tiếp tục an dân nếu đã khử bạo mà dân vẫn chưa an thì chính lực lượng khử bạo này là một cái bạo mới. “Dân an” là thước đo sự thành công và chân chính của lực lượng và công cuộc “khử bạo” vậy.

Chúng ta sẽ tìm hiểu về cách các vị “anh hùng” trong đã làm gì để an dân và khử bạo từ sau ngày “bình Ngô”.

(Xin Quý hữu vui lòng xem tiếp phần 3)

Trong phần này chúng ta dành chút thời gian để tìm hiểu về quan niệm “an dân” và “khử bạo”

An dân

Chữ an “安” được hình thành từ bộ miên “宀” ở trên và bộ nữ “女” ở dưới. Bộ miên chỉ mái nhà, bao trùm, lợp, che chở…; bộ nữ chỉ người phụ nữ. Qua chiết tự như trên, chúng ta phần nào hiểu được quan điểm của người xưa về chữ an trong cụm từ “an dân”

  • An là che chở và chăm sóc. Do bộ miên là mái nhà biểu thị sự che chở, bộ nữ biểu hiện người mẹ, người vợ nên hàm ý sự chăm sóc.
  • An là có được một gia đình hay đúng hơn là mái ấm: có nhà, có vợ.
  • An là sự sinh sôi, phát triển trong theo quy luật vì phụ nữ là biểu hiện của sinh sản, mái nhà là biểu hiện của nề nếp, quy luật.
  • An là tôn ti, trật tự do nữ là biểu hiện của âm mà âm là chỉ sự tiêu cực, người tiểu nhân…đã được thúc quản, bao trùm: âm tiêu dương trưởng. Mặt khác, âm còn là biểu tượng của nền tảng, của đất mà đất được bồi đắp tức xây nền vậy.

Từ đó, chúng ta nhận thấy:

  • An dân là che chở và chăm sóc cho dân.
  • An dân là làm cho mỗi người dân có được một mái ấm, đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần.
  • An dân là làm sao cho người dân được sinh sống và phát triển theo luật pháp và phong hóa.
  • An dân là khống chế sự tiêu cực để phát triển cái tích cực, chân chính. Hay còn ý nghĩa là vun bồi nền tảng mà “dân vi bản” “dân là gốc” mà gốc của con người là đạo đức nên an dân là tạo điều kiện để xây đắp, vun bồi đạo đức của người dân.

Và nếu nhìn tự dạng của của chữ “an” “安” thì gần như đối xứng và cân bằng nên an dân phải trên cơ sở công bằng và chánh trực.

Khử bạo

Khử “去” là trừ bỏ, loại bỏ cái không phù hợp. Khử khác với tiêu diệt “消滅” là hủy diệt, làm mất hẳn đi hay triệt tiêu “撤消” là làm cho mất đi hoàn toàn. Như “khử trùng” có nghĩa là chỉ loại bỏ những vi khuẩn gây hại cho vật chủ chứ không phải tiêu diệt tất cả.

Bạo “暴” là hung dữ, tàn ác, làm hại, hiếp đáp, bùng phát. Trong thiên Vũ Thành 武成 của Thư Kinh 書經 có câu: "Bạo điễn thiên vật" 暴殄天物 nghĩa là tận diệt chim muông cây cỏ sinh vật; Trong Nam Hoa Kinh 南華經 của Trang Tử 莊子 có câu: “Dĩ chúng bạo quả” 以衆暴寡 nghĩa là lấy nhiều hiếp ít.

Một trang của Kinh Thư

Trang đầu của Trang Tử Nam Hoa Kinh

Từ đó, chúng ta nhận thấy:

  • Khử bạo là trừ bỏ, loại bỏ đi cái có hành hành động hung dữ, tàn ác, làm hại, hiếp đáp cái đáng được tồn tại và phát triển.
  • Khử bạo không phải tiêu diệt hoàn toàn tất cả những gì liên quan đến “bạo” mà chỉ trừ bỏ cái thành phần chủ chốt tạo ra nó để trả lại sự phát triển bình thường đáng có.

Như vậy, “an dân” và “khử bạo” là hay mệnh đề bổ sung cho nhau và nối tiếp nhau: khi dân vì bạo làm cho bất “an” thì người anh hùng có sứ mệnh là khử bạo, khử bạo rồi thì phải tiếp tục an dân nếu đã khử bạo mà dân vẫn chưa an thì chính lực lượng khử bạo này là một cái bạo mới. “Dân an” là thước đo sự thành công và chân chính của lực lượng và công cuộc “khử bạo” vậy.

Chúng ta sẽ tìm hiểu về cách các vị “anh hùng” trong đã làm gì để an dân và khử bạo từ sau ngày “bình Ngô”.

(Xin Quý hữu vui lòng xem tiếp phần 3)


COPYRIGHT BY ĐỒ CỔ CHÍ HIẾU
Facebook chat